-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
8 Danh nhân Văn hóa của Việt Nam được UNESCO vinh danh
Tính đến tháng 11/2025, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất của 8 Danh nhân Văn hóa Thế giới của Việt Nam là: Kỷ niệm 600 năm ngày sinh Danh nhân Nguyễn Trãi (1980); 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990); 250 ngày sinh Danh nhân Nguyễn Du (2015); 650 năm ngày mất của Nhà giáo Chu Văn An (2019); 200 năm ngày sinh của Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (2021); 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (2021) và 300 năm ngày sinh của Danh y Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (2023), 300 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn (2026).

1. Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là người đầu tiên của Việt Nam được UNESCO vinh danh (năm 1980). Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌, 1380 – 19 tháng 9 năm 1442), hiệu là Ức Trai (抑齋), là một nhà chính trị, nhà văn, Danh nhân văn hóa thế giới, người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) với Đại Việt. Khi cuộc khởi nghĩa thành công vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở thành một trong những khai quốc công thần của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong Lịch sử Việt Nam. Ông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam liệt kê trong 14 anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Trãi có cha là Nguyễn Phi Khanh, con rể của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán nhà Trần. Khi nhà Trần bị Hồ Quý Ly lật đổ lập nên nhà Hồ, Nguyễn Trãi tham gia dự thi, thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải về Trung Quốc. Sau khi nước Đại Ngu rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự thống trị của nhà Minh. Ông trở thành một trong những mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn, tham gia xây dựng chiến lược cũng như giúp Lê Lợi soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông tiếp tục phục vụ dưới triều đại vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông với chức vụ Nhập nội hành khiển và Thừa chỉ (tức Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ hay Tuyên phụng đại phu Hàn lâm Thừa chỉ). Lần thăng chức sau đó, Nguyễn Trãi được phong Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự.
Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu ân xá cho ông. Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thứ 2 của Việt Nam được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới (1990). Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung (chữ Nho: 阮生恭), còn được biết với tên gọi Bác Hồ, là một nhà cách mạng và chính khách người Việt Nam. Ông là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945–1969, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1956–1960, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951 cho đến khi qua đời.
Trong quãng thời gian sinh sống và hoạt động trước khi lên nắm quyền, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều quốc gia và châu lục, ông được cho là đã sử dụng 50 đến 200 bí danh khác nhau. Về mặt tư tưởng chính trị, Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Marx–Lenin. Ông là nhà lãnh đạo phong trào độc lập Việt Minh tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông cũng là người đã soạn thảo, đọc bản Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và trở thành Chủ tịch nước sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Trong giai đoạn diễn ra chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hồ Chí Minh giảm dần hoạt động chính trị vào năm 1965 vì lý do sức khỏe rồi qua đời vào năm 1969. Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến thắng, hai miền Việt Nam được thống nhất, dẫn đến sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976. Thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh ông cũng như sự kiện này.
Ngoài hoạt động chính trị, Hồ Chí Minh cũng là nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp.

3. Nguyễn Du
Nguyễn Du (3 tháng 1 năm 1766 - 16 tháng 9 năm 1820) tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc" và được UNESCO vinh danh là "Danh nhân văn hóa thế giới".
Ông có cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm từng làm đến chức Tham Tụng (Tể tướng) dưới triều Lê. Sinh gia trong một gia đình có truyền thống khoa bảng nên năm 18 tuổi, tức là năm 1783, ông thi đỗ Tam trường. Nguyễn Du đảm nhiệm nhiều chức vụ quan văn trong triều đình như Đông Các đại học sĩ, Cần Chánh Đại học sĩ (từng được cử đi sứ Trung Quốc), Hữu Tam Tri Bộ Lễ...
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Du - Truyện Kiều - cũng được xem là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam. Truyện Kiều không chỉ là câu chuyện đặc sắc được viết bằng thơ mà còn ẩn chứa nhiều giá trị cuộc sống sâu sắc, phản ánh nhiều góc khuất trong thời phong kiến Việt Nam. Truyện Kiều giúp thơ ca Việt Nam tỏa sáng trên thi đàn quốc tế. Tính đến nay tác phẩm này đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hy Lạp, Mông Cổ, Ả Rập, Nga...) với trên 60 bản dịch khác nhau. Nguyễn Du chính là người đầu tiên đưa tiếng Việt và ngôn ngữ Việt trở thành ngôn ngữ văn học chính thống của nước ta.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Du - Truyện Kiều - cũng được xem là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam. Truyện Kiều không chỉ là câu chuyện đặc sắc được viết bằng thơ mà còn ẩn chứa nhiều giá trị cuộc sống sâu sắc, phản ánh nhiều góc khuất trong thời phong kiến Việt Nam. Truyện Kiều giúp thơ ca Việt Nam tỏa sáng trên thi đàn quốc tế. Tính đến nay tác phẩm này đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hy Lạp, Mông Cổ, Ả Rập, Nga...) với trên 60 bản dịch khác nhau. Nguyễn Du chính là người đầu tiên đưa tiếng Việt và ngôn ngữ Việt trở thành ngôn ngữ văn học chính thống của nước ta.

4. Chu Văn An
Chu Văn An (25 tháng 8 năm 1292, ông không rõ năm mất, có một số tài liệu ghi là năm 1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, là một nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối thời Trần, "danh nhân văn hóa thế giới". Sau khi mất, ông được vua Trần truy phong tước Văn Trinh công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An hay Chu Văn Trinh. Ông được Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá là ông tổ của các nhà nho nước Việt.
Ông được gọi là người thầy của mọi thời đại, nhà giáo lỗi lạc của Việt Nam, đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp dạy học, với triết lý giáo dục nhân văn, không phân biệt giàu nghèo, học đi đôi với thực hành, học suốt đời để biết, để làm việc và cống hiến cho xã hội. Tư tưởng đó của ông không những có ảnh hưởng tới nhiều thế hệ người Việt Nam mà còn góp phần phát triển các giá trị nhân văn trong khu vực. Quan điểm giáo dục của ông có những giá trị tiến bộ vượt thời đại, gần gũi với mục đích giáo dục của thế giới hiện nay.
Ngày 7.11.2019, tại Paris (Pháp), Đại hội đồng UNESCO khóa 40 đã thống nhất biểu quyết “Tổ chức lễ kỷ niệm 650 năm ngày mất của Chu Văn An - Nhà sư phạm Việt Nam”. Như vậy, cùng với Nguyễn Trãi (1980), Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990) và Nguyễn Du (2015), thì Chu Văn An là Danh nhân văn hóa thứ tư của Việt Nam được tổ chức này vinh danh.

5. Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), tục gọi là cụ đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn của Nam Kỳ trong nửa cuối thế kỷ 19. Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822) tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Vào ngày 24/11/2021, ông được UNESCO công nhận là Danh Nhân Văn Hoá Thế Giới. Năm 1990, khu lăng mộ của ông đã được nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Đến năm 2017, khu di tích này tiếp tục được Bộ VH-TT&DL cấp bằng công nhận Khu di tích văn hoá, lịch sử cấp Quốc gia đặc biệt.
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho giáo. Theo thầy đồ học tập từ khi mới 6,7 tuổi, Nguyễn Đình Chiểu dù thông minh, tài giỏi nhưng lại không có duyên khoa bảng khi đang đi thi thì mẹ mất nên ông lập tức bỏ thi để về quê chịu tang mẹ. Vì khóc quá nhiều nên giữa đường ông mắc bệnh nặng dẫn đến bị mù hai mắt. Tuy nhiên đây cũng là cơ duyên giúp ông học được nghề thuốc. Năm 1851, ông mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Ngoài dạy học, bốc thuốc cứu người, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm thơ bằng chữ Nôm, trong đó nổi tiếng nhất là Tập thơ “Lục Vân Tiên”.

6. Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Năm 2021, bà cùng Nguyễn Đình Chiểu là hai nhà thơ của Việt Nam được UNESCO vinh danh là "danh nhân văn hóa thế giới" cùng với kỷ niệm năm sinh/năm mất. Di tác của bà hoàn toàn là thơ và đa số đều được viết bằng chữ Nôm. Bà được nhà thơ hiện đại Xuân Diệu mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm.
Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là "thanh thanh tục tục".
Đúng với danh xưng “Bà chúa thơ Nôm”, thơ của Thơ Hồ Xuân Hương là là sự đột phá trong thời đại của bà khi được tạo nên bởi thứ ngôn ngữ bình dị nhưng cực kì sáng tạo, phá cách, hàm chứa nhiều ý nghĩa to lớn, đặc biệt là về bình đẳng giới, đấu tranh cho việc giải phóng phụ nữ ở Việt Nam. Một số tác phẩm tiêu biểu của bà có thể kể đến Bánh Trôi Nước, Đánh Cờ, Tự Tình, Vịnh Cái Quạt,...

7. Lê Hữu Trác - “Y thánh của Việt Nam”
Phiên họp của Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) lần thứ 42, ngày 21/11/2023, đã thông qua nghị quyết phê chuẩn danh sách các “Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2024-2025," trong đó có hồ sơ kỷ niệm 300 năm Ngày sinh của Danh y Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791), nguyên quán thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) và quê mẹ ở xứ Bầu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).
Danh y Lê Hữu Trác không chỉ là một nhà y dược học lớn mà còn là nhà thơ, nhà văn xuất sắc, nhà tư tưởng tiến bộ, có tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Là con của Tiến sỹ Thị lang Bộ Công triều, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sớm được theo cha học tập ở kinh thành Thăng Long và nổi tiếng là cậu học trò thông minh, toàn diện.
Lê Hữu Trác từng thi đậu Tam trường, rồi theo học binh thư và được sung vào quân đội chúa Trịnh.
Ông là người quyết đoán, thẳng thắn, cương trực nhưng cũng rất hiền từ, là người có chí khí thanh cao nên sớm chán nản khi chứng kiến những rối ren, ngang trái của xã hội.
Sau một thời gian tham gia việc quân chính, viện cớ anh trai mất và phải nuôi mẹ, ông xin về quê mẹ ở ẩn.
Một cơ duyên đã đưa ông đến với nghề thuốc, đó là trong một lần ốm nặng chạy chữa nhiều nơi không khỏi, ông gặp được lương y Trần Độc ở Rú Thành, tỉnh Nghệ An, để chữa bệnh.
Trong hơn một năm chữa bệnh, những lúc rỗi rãi, Lê Hữu Trác thường mượn sách thuốc của thầy Trần Độc để đọc. Và phần lớn những gì viết trong sách ông đều thấu hiểu.
Thấy Lê Hữu Trác là người sáng dạ, lại có duyên với nghề y dược, lương y Trần Lộc ngỏ ý truyền nghề cho ông.
Vốn là người thông minh, học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ có ích cho mình mà còn có thể giúp đời, giúp người, nên ông quyết chí theo học thuốc.
Lê Hữu Trác tìm đọc rất nhiều sách, đêm ngày miệt mài nghiên cứu y dược, lấy hiệu danh là Hải Thượng Lãn Ông.
Để xây dựng nền y học Việt Nam, Hải Thượng Lãn Ông đề cao sự độc lập suy nghĩ, chống giáo điều, dựa trên thực tế khách quan, trung thực nhận xét để tìm ra chân lý. Ông tham khảo nhiều sách Trung y, và áp dụng một cách sáng tạo lý luận Đông y vào hoàn cảnh Việt Nam, trên cơ thể con người Việt Nam.
Ông nghiên cứu lâm sàng một cách sâu sắc, ghi chép hồ sơ bệnh án một cách tỉ mỉ, chẳng những hồ sơ bệnh chữa khỏi mà cả hồ sơ bệnh tử vong cũng được ghi lại với tất cả lòng trung thực của bản thân để trưng cầu ý kiến đồng nghiệp và làm tài liệu tham khảo nghiên cứu.
Hải Thượng Lãn Ông không chỉ lo cứu người mà ông còn luôn lo nghĩ tới việc viết sách để truyền bá y học Việt Nam đã được các bậc tiên y xây dựng từ trước, và bản thân ông đã dày công đào tạo những thế hệ thày thuốc Việt Nam có đạo đức và y thuật, đủ khả năng bảo vệ sức khỏe cho dân tộc.
Sự nghiệp y dược nổi tiếng của Hải Thượng Lãn Ông được tập hợp trong bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh,” gồm 28 tập, 66 quyển, đề cập từ nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa, thương khoa, truyền nhiễm, cấp cứu đến y đức, vệ sinh phòng bệnh, phương pháp nuôi dưỡng, thậm chí cả chế biến các món ăn dưỡng bệnh...
Có thể nói “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” là tinh hoa của y học nhân loại và y dược cổ truyền Việt Nam.
Không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại.
Năm 1781, chúa Trịnh Sâm triệu ông ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Ông có thuật lại sự việc này trong quyển “Thượng kinh ký sự.”
Cuốn sách khá nổi tiếng này phản ánh sự thực của lịch sử, cách sống của vua chúa, cách giao du của tầng lớp công khanh nho sĩ, đồng thời miêu tả lại hình ảnh kinh thành Thăng Long cách đây hơn 200 năm, trong đó có nhiều di tích nay không còn nữa.
Hải Thượng Lãn Ông còn là một nhà thơ có tài, lời thơ mới mẻ, tứ thơ man mác, rất ý nhị được thể hiện trong “Y lý thâu nhân lý ngôn phú chí.”
Ông đã sáng tác rất nhiều bài ca, lời lẽ giản dị, rõ ràng, để người dân bình thường có thể hiểu được, nhớ được về y học dân tộc, như: các bài ca về bào chế thuốc trong “Lĩnh Nam bản thảo,” các bài ca về vệ sinh trong “Vệ sinh yếu quyết diễn ca,” các bài ca về cách xem xét ngũ tạng và các mạch ở tay chân trong “Y gia quan miên”…
Hải Thượng Lãn Ông mất ngày rằm tháng giêng âm lịch năm 1791 tại Bầu Thượng, xã Tịnh Diện (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Nhân dân và giới y học cả nước suy tôn ông là bậc “Y thánh của Việt Nam” và lập miếu thờ chung với Danh y Tuệ Tĩnh ở Hà Nội.

8. Lê Quý Đôn - Danh nhân Văn hóa Thế giới
Ngày 31/10/2025, Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại thành phố Samarkand, Cộng hòa Uzbekistan đã thông qua Nghị quyết UNESCO vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn. Thời khắc quan trọng này diễn ra vào lúc 17 giờ 8 phút giờ Uzbekistan, tức 19 giờ 8 phút (giờ Việt Nam).
Việc UNESCO thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn đã khẳng định sự đánh giá cao của quốc tế đối với những giá trị khoa học, văn hóa, giáo dục của Việt Nam, với cá nhân danh nhân Lê Quý Đôn; góp phần quảng bá, giới thiệu lịch sử văn hóa của Việt Nam, của tỉnh Hưng Yên
Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 2/8/1726, mất ngày 11/6/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên). Lúc nhỏ tên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Ông là con cả của tiến sĩ Lê Phú Thứ (sau đổi thành Lê Trọng Thứ) - người từng làm đến chức Hình bộ Thượng thư. Mẹ ông là con gái một tiến sĩ từng trải qua nhiều chức quan.

Danh nhân văn hóa Lê Quý Ðôn. Nguồn: Báo Thanh niên
Từ nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng ham học, thông minh, có trí nhớ siêu đẳng. Năm 2 tuổi, ông đã đọc được chữ "hữu" và "vô"; 5 tuổi đọc được nhiều bài trong Kinh Thi; năm 10 tuổi, ông học sử, mỗi ngày thuộc được 80 đến 90 chương và học Kinh Dịch về phần Cương hình và Đồ thuyết; năm 14 tuổi ông đã đọc hết Ngũ Kinh, Tứ Thư, Sử truyện và Chư tử. Đặc biệt, ông có thể làm 10 bài phú mà không phải nghĩ và không cần viết nháp.
Có rất nhiều giai thoại bộc lộ tư chất hơn người của Lê Quý Đôn. Trong số ấy, không thể không nhắc tới bài thơ nôm "Rắn đầu biếng học" mà ông ứng biến khi Quan Thượng đến thăm nhà. Quan Thượng thấy ông thông minh nên muốn ông phải ứng khẩu một bài thơ. Khi Lê Quý Ðôn xin đề bài thì Quan Thượng nói rằng: "Phụ thân cậu đã bảo cậu rắn đầu, rắn cổ, vậy cậu cứ lấy đó làm đề bài". Sau một thoáng suy ngẫm, Lê Quý Ðôn đã đọc bài thơ với ngụ ý tự trách mình nhưng đã khiến cho Quan Thượng phải thán phục và khen: "Quả là thần đồng". Bài thơ ấy đến nay vẫn lưu danh trong sử sách:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn, hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

Khu lưu niệm Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn tại Thái Bình (cũ), nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Vũ Quang – TTXVN
Năm 14 tuổi, Lê Quý Ðôn đã theo cha lên kinh đô Thăng Long theo học thầy là tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Nhờ trí tuệ uyên thâm mà 17 tuổi Lê Quý Đôn đi thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi ông đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn (do khoa thi này không lấy Trạng nguyên).
Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê-Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754); Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757); Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764); Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767); Tán lý quân vụ (năm 1768); Thị phó đô ngự sử, Công bộ hữu thị lang (năm 1769); Bồi tụng (năm 1773); Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776); Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783); Công bộ thượng thư (năm 1784)...
Lê Quý Đôn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, có tài năng và kiến thức uyên bác. Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn đã có nhiều sự kiện ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Những năm 1756, 1772, ông được cử đi điều tra tình hình thống khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại… ở Sơn Nam, Lạng Sơn.
Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn tại xã Lê Quý Đôn (Hưng Yên). Ảnh: Thế Duyệt – TTXVN
Trong thời gian đi sứ Trung Quốc (1760-1762), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng, bàn luận với họ những vấn đề Sử học, Triết học... Học vấn sâu rộng của ông đã được các học giả rất khâm phục. Ông có dịp đọc nhiều sách, trong đó có sách của phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữhọc, thủy văn học...
Nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời nên kiến thức của Lê Quý Đôn rất phong phú. Sinh thời, nhà bác học Lê Quý Đôn được mệnh danh là "túi khôn của thời đại". Ông được người đời ca tụng: "Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn", có nghĩa là mọi người trong thiên hạ ai không hiểu việc gì, muốn hỏi thì gặp Bảng nhãn Lê Quý Đôn. Câu nói đó đã nói lên tầm vóc của nhà bác học thiên tài của Đại Việt thời phong kiến. Ham hiểu biết, thích sưu tầm lại có một trí nhớ siêu việt… đó chính là những yếu tố giúp ông trở thành danh nhân đất Việt. Ông đã có những cống hiến trên nhiều lĩnh vực, như: triết học, sử học, nông học, thiên văn học… Mỗi cống hiến của ông lại mang đến giá trị lịch sử, văn hóa, giáo dục cũng như nhân văn cho mọi thế hệ.
Theo TTXVN/Báo Tin tức và tổng hợp